1109 lượt xem
Quặng sắt là một loại nguyên liệu thô tự nhiên được khai thác trên toàn thế giới. Nguyên liệu này được xử lý để sử dụng trong ngành công nghiệp sản xuất sắt / thép.
Ban đầu, quặng sắt được nghiền nát rồi sau đó được sàng lọc để tách ra thành quặng cục và quặng sắt mịn (Iron Ore Fines – IOF). Nếu hàm lượng sắt trong quặng đã qua xử lý > 60% thì nó được vận chuyển trực tiếp đến nhà máy để sản xuất sắt thép.
Cũng giống như rất nhiều quặng cám/mịn bao gồm cả quặng nickel, quặng sắt mịn có thể hóa lỏng và dịch chuyển nếu độ ẩm cố hữu của nó quá lớn.
Hậu quả lớn nhất do hàng hóa lỏng là sự dịch chuyển hàng hóa trong hàm hàng làm mất ổn tính của tàu dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Do đó, sĩ quan thuyền viên trên tàu phải biết đặc tính loại hàng này và các điều kiện để vận chuyển an toàn hàng hóa có thể hóa lỏng.
Do các vấn đề liên quan đến hóa lỏng, một quy trình cụ thể cho việc vận chuyển quặng sắt mịn và quy trình vận chuyển quặng sắt đã được IMO đưa vào phiên bản Bộ luật Vận Chuyển Hàng Rời Rắn Bằng Đường Biển Quốc Tế IMSBC từ năm 2016.
IMSBC định nghĩa quặng sắt là hàng hóa có kích thước tối đa 250mm, trong đó quặng sắt mịn 10% hoặc nhiều hơn các hạt mịn nhỏ hơn 1mm và 50% hoặc nhiều hơn các hạt nhỏ hơn 10mm. Hàm lượng ẩm của quặng sắt mịn thường thay đổi từ 6 đến 12%, với quặng sắt thì lại có độ ẩm thấp hơn.
Vì rủi ro hóa lỏng, việc chuyên chở quặng sắt mịn phải tuân thủ các điều khoản của SOLAS và IMSBC và Bộ luật BLU liên quan đến việc kiểm định, chứng nhận và bốc xếp hàng hóa dễ bị hóa lỏng (rủi ro “Nhóm A”).
Đối với hàng hóa có nguy cơ hóa lỏng, SOLAS yêu cầu người gửi hàng phải cung cấp cho thuyền trưởng hoặc đại diện của họ thông tin hàng hóa trước khi bốc xếp hàng để có các biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết khi vận chuyển. Mẫu yêu cầu về nội dung của thông tin đó được cung cấp trong MSC / Circ.663 của IMO.
Ngoài ra còn có các quy định cụ thể về cung cấp thông tin bổ sung đối với hàng hóa có thể hóa lỏng dưới dạng giấy chứng nhận độ ẩm và giới hạn độ ẩm vận chuyển (TML).
1) Bộ Luật IMSBC yêu cầu hàm lượng độ ẩm của hàng hóa trong mỗi hầm hàng phải được xác định và chứng nhận riêng. Điều này phải được tiến hành trước khi bốc xếp hàng.
Chỉ chấp nhận xếp quặng sắt mịn có khả năng hóa lỏng lên tàu khi độ ẩm hàng hóa thực tế nhỏ hơn so với TML của chúng, (chênh lệch giữa TML và điểm hóa lỏng FMP là 1/10 của FMP). Trong trường hợp ngược lại, Bộ Luật IMSBC khuyến nghị rằng thuyền trưởng có quyền từ chối hàng hóa bị ẩm.
Độ ẩm của hàng hóa đặc biệt dễ bị thay đổi do điều kiện thời tiết và vì vậy giấy chứng nhận không được quá 7 ngày trước khi bắt đầu bốc xếp hàng.
Trường hợp có mưa hoặc tuyết đáng kể giữa thời gian thử nghiệm và bốc xếp, cần tiến hành kiểm tra lại để đảm bảo độ ẩm của hàng hóa vẫn nhỏ hơn TML.
2) Trường hợp không nhận được tờ khai hoặc khi nội dung độ ẩm và TML không có trong giấy chứng nhận, thuyền trưởng nên từ chối bốc xếp và phải thông báo ngay cho chủ tàu.
SOLAS, Chương VI Phần B, Quy định 7, đề cập đến việc xếp dỡ hàng rời và đưa vấn đề này vào Bộ luật thực hành xếp và dỡ an toàn hàng rời (BLU Code). Bộ luật BLU được coi như là một bổ sung của Bộ luật IMSBC.
Bộ luật BLU, mặc dù chủ yếu liên quan đến các thỏa thuận giữa cảng và tàu để đảm bảo các hoạt động tác nghiệp hàng hóa an toàn và hiệu quả tại cảng. Mục 3.3.3 nêu rõ rằng:
“Người đại diện của cảng phải đảm bảo rằng con tàu đã được thông báo càng sớm càng tốt về thông tin chứa trong tờ khai hàng hóa theo yêu cầu của chương VI của SOLAS 1974 như đã sửa đổi”.
Phía cảng phải xác nhận rằng việc tiếp nhận thông tin hàng hóa đã được đưa vào Danh mục kiểm tra an toàn tàu/bờ (Ship/shore Safety Checklist) theo như yêu cầu tại Phụ lục 3 – Vấn đề 12 – của Bộ luật BLU.
Đại diện của cảng gây áp lực thương mại lên thuyền trưởng yêu cầu tàu phải bốc xếp hàng trước khi nhận được tờ khai hàng hóa của chủ hàng là hành động trái với Bộ luật BLU và SOLAS. Thuyền trưởng được khuyến khích không chấp nhận những áp lực như vậy.
3) Mục 8.4 của Bộ Luật IMSBC mô tả phương pháp sử dụng một loại dụng cụ trên tàu gọi là “hộp kiểm định” để kiểm tra xem hàng hóa có được chấp nhận để vận chuyển không (giống như trường hợp chuyên chở nikel).
Kiểm tra bằng “hộp” thực hiện bằng cách đổ hàng hóa vào một nửa một cái hộp nhỏ hình trụ chừng 1 lít. Tay cầm hộp ở độ cao chừng 0,2m đập mạnh xuống sàn tàu chừng 25 lần, khoảng thời gian giữa hai lần đập từ một đến hai giây, xem hàng hóa có bị hóa lỏng hay bị ẩm không.
Nếu kiểm tra bằng “hộp” được thực hiện đối với hàng hóa mà nhận thấy hàng hóa có xu hướng hóa lỏng, đây là một dấu hiệu khá rõ ràng rằng toàn bộ hàng hóa sẽ không an toàn khi vận chuyển.Tuy nhiên, chỉ riêng kiểm tra bằng “hộp” chưa đảm bảo hàng hóa sẽ an toàn, nó không phải là phương pháp thay thế cho phương pháp kiểm định phòng thí nghiệm phù hợp – một phương pháp đã được chấp thuận giữa đôi bên. Nếu khi kiểm tra bằng hộp xuất hiện hiện tượng ẩm hoặc hóa lỏng thì nên tiến hành các thử nghiệm bổ sung trên mẫu hàng trước khi bốc xếp hàng lên tàu.
Do tờ khai hàng hóa của chủ hàng không đủ độ tin cậy trong mọi trường hợp, vì vậy thuyền trưởng và các sĩ quan cần hết sức chú ý khi bắt đầu và trong suốt quá trình bốc xếp hàng hóa. Việc kiểm tra bằng “hộp kiểm định” cũng phải được áp dụng ngay từ đầu và từng thời khoảng nhất định trong suốt thời gian bốc xếp.
4) Các công ty và Thuyền trưởng khi bố trí vận chuyển quặng sắt mịn phải chú ý đảm bảo rằng các điều khoản rõ ràng được đưa vào trong hợp đồng thuê tàu, hợp đồng vận chuyển hoặc các hợp đồng khác (nếu có) để bảo vệ quyền lợi cho mình, và cần phải liên hệ với các bộ phận Ngăn Ngừa Tổn Thất của P&I Club để được tư vấn thêm về chủ đề này./.
Nguồn: TVK